Ngày 10/7 – Lễ nhớ Thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự
Đây là thời kiếm tìm Đức Chúa.
Bài trích sách ngôn sứ Hô-sê.
1Ít-ra-en vốn là một cây nho sum sê,
trái trăng thật dồi dào phong phú.
Nhưng trái trăng càng nhiều,
chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng ;
đất nước càng giàu sang,
chúng càng làm thêm những cột thần lộng lẫy.
2Chúng là thứ người lòng một dạ hai,
rồi đây chúng sẽ phải đền tội ;
bàn thờ của chúng, Đức Chúa sẽ đập tan,
cột thờ của chúng, Người cũng sẽ phá đổ.
3Bây giờ chúng lại nói : “Chúng tôi không có vua.”
Vì Đức Chúa, chúng còn không kính sợ,
thì nếu có vua, liệu ông làm gì được cho chúng ?
7Thế là Sa-ma-ri tiêu tùng.
Vua của nó tựa hồ mảnh ván trôi dạt trên mặt nước.
8Các nơi cao của A-ven sẽ bị phá huỷ, đó là tội của Ít-ra-en.
Gai góc sẽ leo lên các bàn thờ của nó.
Bấy giờ chúng sẽ nói với núi đồi : “Phủ lấp chúng tôi đi !”
và với gò nổng : “Hãy đổ xuống trên chúng tôi !”
12Hãy gieo công chính, rồi sẽ gặt được tình thương.
Hãy khai khẩn đất hoang ;
đây là thời kiếm tìm Đức Chúa
cho đến khi Người đến làm mưa công chính trên các ngươi. Đó là lời Chúa.
Tin Mừng: Mt 10,1-7
Anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
1 Khi ấy, Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
2 Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ : đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông ; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông ; 3 ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô ; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế ; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô ; 4 ông Si-môn thuộc nhóm Nhiệt Thành, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người. 5 Đức Giê-su sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng :
“Anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của người Sa-ma-ri. 6 Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. 7 Dọc đường hãy rao giảng rằng : Nước Trời đã đến gần.” Đó là lời Chúa.
_________________
Thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự sinh năm 1808 tại Ninh Bình. Ngay từ nhỏ, Phêrô Nguyễn Khắc Tự đã được vào nhà Đức Chúa Trời, rồi trở thành thầy giảng theo giúp cha già Quế. Khi cha già qua đời, thầy được cử đến giúp linh mục thừa sai Borié Cao. Trong bốn năm giúp cha Cao, thầy tỏ ra rất nhiệt tình, hiền từ và tận tuỵ. Thầy được cha và giáo dân quý mến. Bốn năm cùng làm việc tuy chẳng lâu, nhưng đã nảy sinh một mối tình thầy trò thân thiết đặc biệt giữa hai người. Chính sự gắn bó đó đã đưa thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự vào vòng lao lý khi muốn theo vị linh mục – thầy của mình đến cùng.
Đọc từng dòng hạnh các thánh Tử đạo Việt Nam, ta nhận thấy “tình thầy trò” giữa thầy giảng Phêrô Nguyễn Khắc Tự với linh mục thừa sai Borie Cao, và tình thầy trò của Chúa Giêsu với người môn đệ bội phản Giuđa có những nét tương đồng; nhưng những nét tương đồng ấy lại dẫn đến hai kết thúc trái ngược. Ba năm theo Thầy Giêsu, Giuđa có lẽ chưa cảm nghiệm được tình thương và gương sáng của Thầy, anh đã mất đức tin. Bốn năm cùng làm việc với cha Borie Cao, thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự đã học được gương sáng của thầy mình, trung thành theo Chúa và giữ vững đức tin.
Trước khi chia tay các môn đệ thân tín trong bữa tiệc ly ân tình, Chúa Giêsu đã nói những lời tâm huyết. Ngài bẻ miếng bánh trao cho Giuđa...Anh đã ra đi lấy cái hôn làm dấu chứng phản lại Thầy mình. Những ngày giờ cuối trong cuộc tử đạo của Đức Cha Borie Cao, cũng ghi lại hình ảnh lưu luyến quyết theo thầy của Phêrô Nguyễn Khắc Tự; cha Borie Cao đã lấy tấm khăn quàng xé đôi, trao cho trò của mình ý muốn nhắc nhở anh về điều anh đã hứa “xin cha cho con theo cha đến cùng” thì anh hãy giữ cho chu toàn.
Phêrô Nguyễn Khắc Tự đã giữ miếng vải và ghi khắc tâm tình ấy cho đến ngày tử đạo. Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, các môn đệ bỏ trốn vì sợ; trong hành trình lao lý của cha Borie Cao, Phêrô Nguyễn Khắc Tự chạy theo xưng mình là đệ tử của cha, xin cho được cùng sống chết với cha. Vì vậy mà thầy Tự đã bị bắt và cũng đã bị hành hình như sư phụ của mình.
Chắc hẳn bài học trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu đã ghi đậm trên cuộc đời thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự; chắc hẳn tiếng đời nhiếc móc về việc phản thầy của Giuđa Itcariốt đã làm thức tỉnh bao học trò thảo hiếu. Và chắc chắn một điều, tình yêu dành cho Chúa và lễ giáo dành cho bậc thầy khả kính đã hướng dẫn Phêrô Nguyễn Khắc Tự tỏ lòng hiếu trung.
Những cuộc tra khảo, đòn vọt tái diễn nhiều lần từ lúcPhêrô Nguyễn Khắc Tự bước theo chân người cha tinh thần và cũng là người thầy khả ái. Phêrô Nguyễn Khắc Tự xứng đáng là một học trò ngoan, hiểu, sống và gặt hái được ý nghĩa từ những điều mình đã học. Thầy luôn kiên vững với niềm tin. Thầy thường khuyên các giáo hữu đến thăm thầy như sau: "Hãy chấp nhận Thánh Ý Chúa, trung thành giữ đạo và cầu nguyện cho nhau đủ sức chịu đựng đến cùng."
Trọng thầy để lại làm thầy, những khi có thể thầy tận dụng hoàn cảnh để dạy giáo lý và cắt nghĩa về đạo cho những bạn tù và những lính canh ngoại giáo.
Tháng 7/1840, thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự bị áp giải ra pháp trường Đồng Hới. Đến nơi,thầy Tự hỏi cho biết chính xác chỗ trước đây đã xử Đức Cha Cao, rồi vui vẻ quỳ ngay xuống đó để cầu nguyện. Giờ hành quyết đã điểm. Thầy Tự được về hưởng phúc với Chúa Kitô, tại chính nơi đầu người cha tinh thần của thầy rơi xuống. Hôm ấy là ngày 10/7/1840.
Đức Lêo XIII đã suy tôn thầy giảng Phêrô Nguyễn Khắc Tự lên hàng chân phước ngày 27/5/1900. Ngày 19/6/1988, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển Thánh.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã cho con những thầy cô giáo trong cuộc đời. Xin giúp con sống xứng đáng với những hy sinh lớn lao của các vị ấy. Xin cho con biết kính trọng, vâng lời và ghi nhớ công ơn của các bậc thầy đã đi ngang qua cuộc đời con. Ước gì công đức của các vị đổ ra sẽ không trở nên vô nghĩa trong cuộc đời và trên phận người. Amen!
Dòng nữ Đa Minh Rosa Lima Việt Nam